Bài làm

Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, tưởng như cùng với sự kết thúc của xã hội phong kiến, văn học trung đại Việt Nam sẽ rơi vào ngõ cụt của sự bế tắc với phương thức phản ánh đã lỗi thời. Nhưng thật kì lạ là trong sự suy thoái tưởng chừng đã đến đỉnh điểm lại xuất hiện một tài năng thơ ca vào loại xuất chúng như Nguyễn Khuyến. Ông giống như một dấu cảm thán khẳng định tính cổ điển có sức lay động lòng người của giai đoạn cuối cùng thời kì văn học dài hàng chục thế kỉ này. Ông để lại cho văn học Việt Nam một di sản khá phong phú, đồ sộ. Điều đặc biệt là khi nhắc đến ông, người ta nghĩ ngay đến những bài thơ về quê hương làng cảnh Việt Nam. Đặc biệt là chùm thơ thu, trong đó có bài Thu điếu:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền cậu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vào

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách văng teo

Tựa gối buông cần, lâu chẳng được

Cá đâu đẹp động dưới chân bèo.

Chùm thơ ba bài Thu Vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy một tình yêu dạt dào. Riêng Thu điếu nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là điển hình cao hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn với tình yêu quê hương tha thiết.

Bài thơ được viết bằng thẻ thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng là biểu cảm. Cảnh thu, trời thu của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngòi bút thần tình của Nguyễn Khuyến.

Hai câu đầu:

Áo thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền cậu bé tẻo teo.

Nhà thơ hầu như không hứng thú gì với chuyện câu cá mà đắm say với không khí cảnh sắc mùa thu. Ngay câu đầu nhà thơ đã gọi cái ao của mình là ao thu, và với tính chất lạnh lẽo nước trong veo thì đó cũng là ao thu chứ không phải là môi trường thích hợp cho việc câu cá. Bên cạnh đó cảm hứng của nhà thơ hoàn toàn đắm chìm trong cảnh sắc mùa thu. Một cảnh trong và tĩnh gần như tuyệt đối: nước trong veo, trời xanh ngắt, khách vắng teo. Giác quan của nhà thơ cực kì tinh nhạy và phải hết sức chăm chú thì mới nhận ra được những biểu hiện nhỏ nhắn tinh vi làm tôn thêm cho cái trong và tính của một khung cảnh đầy màu sắc.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Màu biếc của sóng hòa hợp với sắc vàng của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật trong câu thực rất điêu luyện: Lá vàng với sóng biếc, tốc độ vèo của lá bay tương ứng với mức độ tí của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ vào trong thơ Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được câu thơ vừa ý trong bài Cảm thu, tiễn thu: Vào trong lá rụng đầy sân

Đến hai câu luận:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Không gian được mở rộng, bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời xanh ngắt với những tầng mây lơ lửng trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là xanh ngắt. Ở Thu vịnh là Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Thu ẩm là Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, đến Thu điếu thì Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt. Xanh ngắt là xanh có chiều sâu. Trời thu không mây (xám) mà xanh ngắt, thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cải lắng của không gian, cái nhìn vời Vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi ông lão lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê, Xóm thôn vắng lặng, tĩnh mịch, mọi con đường quanh co, hun hút không một bóng người qua lại:

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người cậu cả như đang chìm trong giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước ao thu lạnh lẽo đến chiếc thuyền tẻo teo, từ sóng biếc đến lá vàng, từ từng mây lơ lửng đến ngõ trúc... hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh... có khi thoáng chút bâng khuâng, man mác nhưng rất gần gũi, thân thiết với người Việt Nam.

Biết bao thời gian trôi qua trong không gian tĩnh mịch ấy, những tư thế ngồi của ông câu cá tưởng như bất động:

Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Tựa gối buông cần là tư thế của người câu cá, cũng là một tâm thế nhàn, thoát vòng danh lợi, cái âm thanh cá đâu đớp động nhất là từ đâu gợi lên sự mơ hồ xa vắng và chợt tỉnh. Người xưa có kẻ lấy câu cá làm việc đợi thời, đợi người xứng đáng để phò tá.

Vậy là trong văn thơ truyền thống lấy việc câu cá để từ chối việc làm quan và coi câu cá là việc cầu người, câu quạnh, câu lười. Bài thơ Thu điếu cũng thế hiện khát vọng câu thanh, câu vắng cho tâm hồn của một nhà thơ có phẩm chất thanh cao.

Bài thơ Câu cá mùa thu quả là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, nhưng nét vẽ xa gần tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa vào trong làn gió thu, tiếng cả, đớp động chân bèo là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước.

Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình đồng quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc Thư điếu, Thu ẩm, Thu vịnh, chúng ta thêm yêu quê hương, thêm yêu xóm thôn đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Ông xứng đáng là nhà thơ kiệt xuất trong thơ ca Việt Nam.