Bài làm
Viết về mùa thu, Nguyễn Khuyến đã gặp gỡ không chỉ thi ca truyền thống mà còn thi ca hiện đại, không chỉ thị ca Việt Nam mà cả thi ca nước ngoài. Không chỉ gặp gỡ hồn thơ Á Đông mà còn gặp gỡ hồn thơ phương Tây trước mùa thu. Dường như mùa thu trở thành nơi giao hoà, cộng hưởng, là điểm hẹn của tâm hồn thi sĩ muôn phương, ngàn đời.
Vẫn là mùa thu làng cảnh Việt Nam bình dị nhưng dưới con mắt, tâm hồn cảm nhận tinh tế của Nguyễn Khuyến, mùa thu hiện lên mang những gương mặt, dáng điệu khác nhau. Nếu Thu điếu là bức tranh mùa thu xanh, sắc xanh trải ngàn, lênh láng. Thu vịnh là bức tranh mùa thu của gió nhẹ trời cao xanh trong, của tâm trạng hoài niềm thì Thu ẩm là bức tranh mùa thu đa vẻ đa diện được cảm nhận trong nhiều thời điểm, nhiều không gian.
Vẫn là bầu trời thu xanh ngắt nhưng mỗi bài thơ là một sắc điệu riêng:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
(Thu vịnh)
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
(Thu ẩm)
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
(Thu điếu)
Xanh ngắt là màu xanh như thế nào? Chỉ một từ nhưng Nguyễn Khuyến đã thu được và lấy hồn trời thu lên trang thơ. Một màu xanh đến quá quắt. Bầu trời mùa thu không chỉ xanh, đó còn là bầu trời cao vời vợi, xanh ngát, rộng mênh mông. Không gian mở ra khoảng đạt đến vô cùng. Xanh ngắt trở thành “nhãn tự” của câu thơ, trở thành linh hồn của trời thu. Bầu trời dưới con mắt Nguyễn Khuyến đẹp lạ, cao, xa, rộng đến ngút ngàn tầm mắt. Nó trở thành phông nền cho bức tranh thu.
Vẫn là màu xanh ngắt ấy nhưng khi thì Nguyễn Khuyến nói lời cảm nhận, miêu tả: Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao là một nét vẽ cho màu xanh chảy tràn suốt mấy từng trời cao rộng, lúc khác lại là một băn khoăn, một thắc mắc: Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt? Hẳn tạo hóa nhiệm màu nhuộm sắc xanh ngắt cho da trời mùa thu. Trước sắc màu tươi sáng của trời thu, thi sĩ sao tránh khỏi thảng thốt giật mình vì vẻ đẹp mê say ấy. Câu hỏi không cần lời đáp. Hỏi chỉ để thể hiện sự ngạc nhiên, thảng thốt trước vẻ thu.
Phải chăng từ câu từ, tổ chức ngôn từ khác nhau khiến sắc xanh ngắt kia sống mãi trong cả ba bài thơ thu? Ta giật mình gặp lại sắc màu nhưng ta còn giật mình, thú vị hơn khi được thay đổi góc độ cảm nhận sắc màu ấy theo lăng kính thi nhân. Nguyễn Khuyến quả đã đạt đến độ nhuần nhuyễn, điêu luyện của sự sáng tạo trong thi ca, Sắc xanh ngắt đã mới, đã là sự sáng tạo, cách thể hiện sắc xanh ngắt còn mới mẽ, độc đáo hơn. Ba câu thơ, ba hình ảnh thơ mà không rơi vào thế nhàm chán, đơn điệu. Ngược lại câu chữ cuốn người đọc vào hành trình bất tận khám phá vẻ đẹp mùa thu.
Đối với thế giới mùa thu trong Thu điếu, ta cơ hồ nhận ra cái gì cũng nhỏ bé, cũng khẽ khàng:
Một chiếc thuyền cậu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Một chiếc thuyền bé lại còn bé tẻo teo. Tưởng chừng hình ảnh thu nhỏ hết cỡ. Trong không gian đầy ao đầm của làng quê Nguyễn Khuyến, con thuyền cũng nhỏ bé nhẹ nhàng trôi trên ao. Nếu không phải trong ao hồn con thuyền sẽ chẳng bé tẻo teo như thế. Và cũng vì trong ao nên sóng biếc cũng chỉ hơi gợn tí. Gợn vốn là sự chuyển động rất mỏng, rất nhỏ khó thấy...vậy mà câu thơ Nguyễn Khuyến lại dùng hơi gợn tí. Sự kết hợp từ ngữ độc đáo, mới lạ đã đưa hoạt động như có như không đạt đến độ vi mô, tinh tế nhất. Ngay cả lá vàng trước gió cũng chỉ khẽ đưa vào nhẹ nhàng, sẽ sàng. Câu thơ không tả gió, chỉ tả lá rơi mà vẻ nhẹ nhàng man mác của gió heo may vẫn được biểu hiện. Ba câu thơ, ba hình ảnh, ba nét vẽ mà hình ảnh nào cũng nhỏ bé, nhẹ nhàng, nét vẽ nào cũng thanh thoát. Chỉ “lẩy bút ti ti mà khí thu, hơi thu đã hiện lên, dù nhẹ. Đặc biệt Thu điếu, với việc gieo vần eo, đã tạo nên cảm giác cái gì cũng thu nhỏ lại. Hoạt động cũng ít ỏi thôi. Âm thanh cũng nhẹ nhàng thôi, không gian hầu như tĩnh lặng tuyệt đối. Phải gắn bó với làng quê Việt Nam, phải tinh tế trong cảm nhận lắm, Nguyễn Khuyến mới thu vào trong thơ mình nét dịu nhẹ, cơ hố như Có như không, như hữu hình mà cũng như vô hình của nét thu. Khí thu khác hẳn với cảm nhận của Đỗ Phủ trong thu húng Hơi thu hiu hắt, khí thu loà. Thu trong cảm quan nhà thơ mang linh hồn Việt Nam nhẹ nhàng và thanh sơ.
Cũng thể hiện sự nhẹ nhàng, man mác của gió thu, tiết thu, Nguyễn Khuyển trong Thu vịnh viết:
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nếu trong Thu điếu, Nguyễn Khuyến lấy cải động của sóng, của lá vàng để tả gió, nói gió thì ở đây trong Thu vịnh nhà thơ lại dùng hình ảnh cần trúc lợi phơ để thể hiện sự dịu dàng, man mác của gió heo may đầu thu. Cần trúc là một hình ảnh rất quen, rất điển hình của làng quê Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những đợt măng qua thời gian lớn lên, khẽ cong trước gió như cân trúc. Nhưng chỉ lơ phơ thôi, dịu nhẹ thôi dưới tác động của gió hắt hiu. Hai từ láy lơ pho, hắt hiu miêu tả sự nhẹ, sự mỏng cùng song hành trong một câu thơ đã lắng vào đấy, quyện vào đấy không gian đất trời mùa thu, quyện vào đấy hơi thu, khi thu, một nét thu rất Việt Nam nhẹ và êm..
Hoà trong khí thu, tiết thu thanh cao, dịu nhẹ ấy, không gian khung cảnh mùa thu cũng mở ra nhiều chiều nên thơ và say mê lòng người. Tập trung nhất, cảm nhận nét thu dịu dàng, thơ mộng nhất có lẽ là ở bài thơ Thu điếu:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền cậu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí.
Lá vàng trước gió khẽ đưa vào
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Không gian bức tranh mở ra tại ao thu lạnh lẽo, cái lạnh không thấm vào da thịt, không buốt xương, nó chỉ nhẹ nhàng, mơn man. Một chiếc thuyền cậu bé tẻo teo lững lờ trên mặt nước ao thu ây. Nước trong veo, xanh và sáng đến vô ngần. Phải trong, phải xanh, nhất là phải rất sáng mới có được làn nước ao trong veo như thế. Đến sóng gợn cũng phải biếc, cũng chứa sắc xanh đến nao lòng người. Cùng hoà điệu với nước xanh, sóng xanh là bầu trời xanh ngắt. Sắc xanh như đổ tràn, kết nối mặt nước với bầu trời, Bầu trời xanh in bóng xuống mặt nước khiến mặt nước vốn trong lại xanh thêm. Mặt nước phải tĩnh lặng như tấm gương khổng lồ của tạo vật để bầu trời kia nghiêng mình soi bóng. Trời và nước giao hoà, kết nối. Trời cao vời vợi, nước sâu thăm thẳm, tất cả đều kéo giãn không gian, mở rộng khoảng cách. Tưởng không có gì hơn giữa cõi thăm thẳm của nước trời độ thu. Giữa không gian cao, rộng và sâu ấy, chiếc lá vàng vốn nhỏ càng nhỏ thêm, rợn ngợp thêm. Sắc vàng duy nhất như đâm xuyên giữa bao nhiêu là sắc xanh. Một chiếc lá, một sắc vàng nhỏ xíu khẽ đung đưa, trở thành tâm điểm, nổi bật lên trên nền không gian ấy. Bức tranh thiên nhiên cảnh vật rất thật và đẹp, sống động và xinh xắn. Nhìn sắc vàng của lá, ta nhớ đến câu thơ:
Một lá ngô đồng rụng
Thiên hạ biết thu sang.
Chẳng cần nhiều sắc vàng cuả lá. Không gian mùa thu Việt Nam dưới cái nhìn của Nguyễn Khuyến ngợp sắc xanh, khác hẳn màu áo mơ phai trong thơ Xuân Diệu:
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với ảo mơ phai dệt là vàng.
Đâu cứ phải sắc vàng mới dệt nên mùa thu, đậu cứ phải chỉ bức tranh Mùa thu vàng của Levitan mới đẹp, mới đắm say lòng người. Nguyễn Khuyến bằng vốn ngôn ngữ giàu chất gợi, chất hoạ đã vẽ nên một màu thu xanh nên thơ rất Việt Nam làm say đắm lòng bất cứ một người nào đã từng sống với thu, với làng quê đất Việt trong tiết thu. Thậm chí những câu này của Nguyễn Khuyến đủ giúp ai chưa từng sống ở cảnh ấy, không gian ấy thêm yêu mến và khát khao tìm về hoà điệu cùng cảnh vật, lòng người hay chí ít, đủ tạo cảm giác ta đã sống, đã cảm nhận sâu sắc, cảm nhận đủ đầy mùa thu Việt Nam nơi chốn quê thanh bình, yên tĩnh.
Khác với không gian Thu điếu, Thu vịnh, bài thơ Thu ẩm lại tạo nên một vẻ đẹp khác rất quen mà sao vẫn hấp dẫn, cuốn hút, mê say. Bài thơ mở ra không phải là không gian cao trong, rộng rãi, khoáng đạt đến vô cùng của Thu điều, Thu vịnh, không phải là trời mây, non nước, là thiên nhiên tạp vật đắm say. Bài thơ mở ra một không gian gần gũi, thân thuộc của quê nghèo Việt Nam buổi ấy:
Năm gian nhà có thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Năm gian nhà có hiện lên đủ để tạo cảm nhận về sự nghèo đói của quê hương, của đời riêng Nguyễn Khuyển nhưng còn nghèo hơn, khổ hơn, tăm tối hơn với cụm từ thấp le te. Đã thấp lại cò: le te! Tưởng như năm gian nhà chạm đất được. Phải chăng đây là hình ảnh rất chân thực của làng quê ông, một vùng đồng bằng chiêm trũng chưa mưa đã úng, quanh năm đói nghèo? Cảnh vẫn đẹp, vẫn nên thơ say lòng người nhưng cuộc sống thì lấm lem, nghèo đói. Nhà thấp. Một sự tôi. Lại thêm ngõ tối, đêm sâu. Không gian càng tối đen, ngột ngạt hơn. Giữa đêm tối mịt mùng, sự lập loè của đom đóm không làm sáng lên không gian, không làm ấm lên. Ngược lại cảm giác tôi càng rợn ngợp hơn, đặc quánh lại, đầy ám ảnh. Phải nói rằng, Nguyễn Khuyến đã rời khỏi không gian tràn đầy ánh sáng, tràn đầy màu sắc đẹp đẽ của thu để trở thành về cảm thương trước cảnh sống, trước không gian sống quen thuộc quanh mình. Đọc những vần thơ ấy, ta có cảm giác Nguyễn Khuyến như nhói lòng trước cảnh ấy, trước hiện thực tăm tối ấy. Bài thơ vì thế như ngoặt sang hướng khác, không còn nữa sự thảnh thơi, thư thái trước đất trời tạo vật. Thế nhưng:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn áo lóng lánh bóng trăng loe.
Câu thơ không tả trăng, chỉ gợi về trăng nhưng đủ để vẻ đẹp ấy ngời toả, lung linh. Ta đã gặp nhiều hình ảnh về trăng trong thơ nhất là thơ thu. Đây là trăng trong thơ Xuân Diệu: thỉnh thoảng nàng trắng tự ngẩn ngơ - một vầng trăng như người con gái đầy tâm trạng ngẩn ngơ. Và đây là trắng thu trong thơ Bác: Trung thu trăng sáng như gương. Nó khác hẳn trăng trong thơ Nguyễn Khuyển. Trăng không hiện hình, trăng ẩn mặt. Nhưng mặt ao vẫn soi được bóng trăng. Trăng dát bạc lên mặt ao khiến cho không gian lung linh, lóng lánh đầy ánh sáng. Sắc trắng, ánh trăng như loe dài, như lan toả trên mặt ao. Từ loe được Nguyễn Khuyến sử dụng rất đắt, tạo nên duyên riêng của trăng, của câu thơ, tạo nên vẻ đẹp riêng của bài thơ.
Có thể nói, bức tranh cảnh thu ở mỗi bài thơ là một vẻ riêng, một nét đẹp riêng không hoà lẫn. Cùng với việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong sáng, điêu luyện, Nguyễn khuyên đã góp những tiếng thơ hay, những bài thơ hấp dẫn, độc đáp trong thơ thu. Có lẽ hiểm có một tác giả nào có thể để lại chùm thơ cùng đề tài sống mãi, cuốn hút, giành được sự yêu mến mãi như Nguyễn Khuyến với ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh.
Đặc biệt không chỉ sáng tạo mới mẻ trong thể hiện cảnh thu, Nguyễn Khuyến còn đặt dấu ấn riêng trong hình ảnh nhân vật trữ tình. Tất cả đều mang nét buồn, nhưng mỗi bài thơ là một vẻ riêng không gian giống nhau, ở Thu điếu, nhân vật trữ tình dường như chìm khuất trong hình ảnh. Hiển hiện lên trang thơ là con người vui thú “an bần lạc đạo”, vui cùng điền viên nhưng kì thực đã thả hồn theo đất trời thu hay nỗi niềm gì lẩn khuất tự bao giờ. "Tựa gối buông cần" nhưng chẳng hề chú tâm đến việc câu. Thu điếu vậy mà điếu hậu như chẳng được mảy may bận tâm. Cái còn lại có chăng chỉ là con người mang nặng tâm trạng, tìm về với thiên nhiên đất trời để “thanh lọc tâm hồn”, để tìm chỗ nghỉ trên chặng đường đời. Ở Thu ẩm ấy lại là người uống rượu, say sưa với tâm sự u uẩn, gửi vào đó bao nhiêu nỗi niềm không thể nào giải toả. Con mắt đỏ hoe kia hẳn không phải là say rượu. Có lẽ đó là do khóc cho đời, cho kiếp người chăng? Đằng sau vẻ uống rượu đến say nhè, đằng sau hình ảnh mắt lão không vậy cũng đỏ hoe kia chứa đựng biết bao nhiêu tâm trạng, bao nhiêu nỗi niềm.
Rồi nữa, ở Thu Vịnh lại là con người mang tâm trạng hoài niệm xa xăm:
Mây chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.
Tâm trạng thảng thốt như đang gửi ở phương nào nay sực tỉnh: Thi hứng tràn về, vậy mà chẳng thể nào cất bút: Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Thẹn vì lẽ tài thơ chưa bằng hay thẹn vì mỗi không có khí phách, chí khí của Đào Tiềm? Có lẽ là cả hai, những căn cốt vẫn ở phần sau. Phải chăng đó cũng là nỗi lòng u uẩn trong hai bài thơ trên chưa thể nói ra. Cùng một tâm trạng, cùng một nỗi lòng nhưng mỗi lần mỗi khác, những nét vẽ riêng, những diện mạo riêng không hoà lẫn.
Cái gì đã giúp cho chùm ba bài thơ thu này vượt qua sự băng hoại của thời gian, tổn tại mãi trên dòng thơ ở tầm cao, ở chiều sâu của nó, chiếm lĩnh, ăn sâu trong lòng bạn đọc? Phải chăng là bởi cả ba bài thơ đã được tinh luyện, chắt lọc từ hiện thực cuộc đời đẹp đẽ, nên thơ xen lẫn cả những vất vả, lấm lem bùn đất? Hiện thực vẻ đẹp quê hương qua lăng kính của nhà thơ đã khúc xạ, phát quang lên trang viết. Hiện thực mà không sao chép, không quy chụp. Ngược lại Nguyễn Khuyến đã hút lấy phần tinh tuý nhất, sâu sắc nhất của hồn thơ, của tình người để tạo nên trang thơ.
Sống sâu sắc, nặng nghĩa nặng tình với quê hương, với con người Nguyễn Khuyển đã thấm vào máu thịt của mình tình quê, vẻ đẹp quê hương. Có bao nhiêu tinh hoa ông dồn cả lên ngọn bút để rồi viết nên những vần thơ thật tinh tế.Vẻ đẹp quê hương soi chiếu trong cái nhìn, cảm quan người nghệ sĩ trở lên lung linh, đa vẻ, đa màu. Ba bài thơ mùa thu được viết nên, nhào nặn nên từ những gì rất thực, rất đời, từ vẻ đẹp của quê hương nhưng hơn thế, cái để tác phẩm sống là phần tình mà nhà văn gửi gắm, trao trọn cho nó. Một trái tim yêu quê, một xúc cảm chân thành nồng nhiệt trước cuộc đời, trước cái đẹp đã thăng hoa, vút lên thành những vần thơ. Tình cảm cùng sự liên tưởng, chọn lựa của nhà thơ đã thổi phồng cùng cánh diều hiện thực của quê hương. Hồn thơ tung cảnh, câu thơ vút lên, ngân nga như câu hát. Để rồi xúc cảm chân thành của nhà thơ lay động tới miền sâu nhất của xúc cảm bạn đọc. Từ trái tim đến trái tim, tác phẩm thơ sống mãi, trường tồn, vượt qua mọi thử thách của thời gian, sự cách trở của không gian, tri âm với triệu triệu con người.
Hơn nữa, cùng bắt nguồn từ hiện thực, vẻ đẹp mùa thu và tâm trạng trước thu, nhà thơ đã luôn đặt mình trong hành trình khám phá, chinh phục và sáng tạo cái mới? Cảm quan nghệ sĩ tạo nên sự khác biệt mới lạ trong cách cảm nhận, thể hiện so với các nhà thơ khác và mỗi người lại phải cố gắng không giẫm lên dấu chân người khác và không lặp lại chính mình. Nhờ thể ba bài thơ, ba vẻ đẹp riêng, ba sức hấp dẫn riêng sống mãi. Phải chăng như Nguyễn Tuân phát biểu: “Thơ là mở ra một cái gì mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó như là vẫn phong kín”. Mới về nội dung, mới về cảm xúc và mới về nghệ thuật biểu hiện nữa. Bởi như L.Lêônộp đã nói: “Mỗi tác phẩm văn học phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. Vẫn là cảnh ấy, tình ấy nhưng ở mỗi bài thơ, Nguyễn khuyến đã tìm cho mình hệ thống phương tiện ngôn ngữ riêng. Câu chữ thay đổi, nét nghĩa cơ hồ cũng khác trước. Bài thơ, câu thơ không lặp lại. Những lớp nghĩa, những tầng nghĩa khép mở, đổi thay trong hình thức ngôn từ. Có bao nhiêu tinh hoa của ngôn ngữ tiếng Việt trong sáng, biểu cảm, Nguyễn Khuyến đã dành trọn để thể hiện mùa thu làng quê. Câu chữ bình dị mà trong sáng, hình ảnh gần gũi mà giàu sức gợi, sức cảm. Nội dung, hình thức thống nhất, quyền hoà, bình và rượu thống nhất, hoà hợp, đan xen, tạo nên sức hấp dẫn thu hút người đọc vào hành trình bất tận.
Có thể nói, Nguyễn Khuyến bằng tài năng và trái tim người nghệ sĩ, đã cảm nhận và thể hiện tinh tế mùa thu với sắc vẻ riêng nên thơ và hấp dẫn lạ kì. Nó đã đạt được những yêu cầu chung đối với bất kì tác phẩm văn học chân chính nào: "Thơ là hiện thực, là cuộc đời và còn là thơ nữa". Cuộc đời cộng hưởng trong cái nhìn cảm quan người nghệ sĩ tạo nên vôn chất liệu làm thành tác phẩm. Chất hồ kết dính, nhào nặn nó chính là sức liên tưởng, tưởng tượng sự sáng tạo của riêng thi sĩ. Vì thế chăng mà ba bài thơ thu cùng tên tuổi Nguyễn Khuyến sống mãi? Thực tế văn học đặt ra yêu cầu bức thiết cho mỗi nhà văn khi bước chân vào làng văn là phải sống thực sự mà đón nhận tinh lọc cuộc đời, đãi cát tìm vàng giữa bể trời rộng lớn, tinh luyện nên chất muối cuộc đời từ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khách quan hiện thực và chủ quan nhà thơ, kết hợp cuộc đời với trái tim giàu xúc cảm, dễ ngân rung của người sáng tác. Đó không chỉ là đòi hỏi với cá nhân nhà thơ mà cả với dòng thơ, nên thơ.