Bài làm
Từ ấy được xem như những trái ngọt đầu tiên mà Tố Hữu đã gặt hái được để dâng cho đời. Đến với tập thơ chúng ta không chỉ bắt gặp một thanh niên yêu cách mạng, say mê lí tưởng mà còn thấy được hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng đang sống và chiến đấu. Vì vậy, Từ ấy không chỉ có những bài thơ tràn đầy cảm xúc say mê lí tưởng, mà còn có những bài ghi lại những chặng đường chiến đấu bị tù đầy gian khổ, trong số đó phải nói đến bài thơ Nhớ đồng.
Bài thơ được Tố Hữu viết vào tháng 7 năm 1939, bốn tháng sau khi nhà thơ bị mật thám bắt và cầm tù. Toàn bài thơ là nỗi nhớ tha thiết. Mở đầu bài thơ là lối nói so sánh được nhà thơ nêu ra như để xác định tâm thế cô đơn của chính mình:
Gi sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò.
Nhà thơ như tự hỏi chính lòng mình để rồi tự khẳng định tâm trạng của chính mình. Đây chính là tâm trạng cô đơn, quạnh vắng và cồn cào nhớ thương. Câu thơ như một tiếng thở dài buồn đến da diết. Chúng ta lại chợt nhớ đến hình ảnh của người chiến sĩ cộng sản lần đầu tiên bị ném vào tù trong bài Tâm tư trong tù:
Cô đơn thay là cảnh thân tù.
Tai mở rộng và lòng nghe rạo rực.
Thế nhưng đến đây ta không chỉ cảm nhận thấy sự cô đơn mà còn cảm thấy buồn tê tái, cái hiu quạnh đến lạnh lẽo, và sự thương nhớ như đang vò xé gan ruột. Sau hai câu thơ mở ra như lời bộc bạch tâm sự, nhà thơ lần lượt cho ta thấy rõ nỗi nhớ nhung trong tâm hồn người cách mạng:
Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng tre mát thủa yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai sắn ngọt bùi
Đâu những đường con bước vạn đời
Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi
Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi...
Không gian của bài thơ như được trải rộng ra. Đó chính là không gian của quê hương yêu dấu nơi có mùi đất quê quen thuộc, nơi có bóng tre mát rượi, những ô mạ xanh mơn mởn, nơi trải dài nương khoai, nương sắn và cả những mái tranh thấp bình dị. Không gian được trải rộng ra phải chăng cũng chính là sự trải rộng của nỗi nhớ trong lòng nhà thơ. Đáng lưu ý là trước mỗi cảnh vật quen thuộc như vậy là từ đâu dùng để hỏi. Tuy nhiên ở đây nhà thơ không chỉ đơn thuần là sự tìm kiếm, là hỏi vị trí mà chính mình là đang tự hỏi lòng mình, đang lục lại trong trí nhớ những gì đã xa, đã mất. Đầu gợi lên trong chúng ta sự mất mát trống vắng. Từ “đầu” được Tố Hữu lặp lại năm lần liên tiếp làm cho nỗi nhở như càng được nhân lên dồn dập, làm cho sự trống vắng mất mát hụt hẫng trong lòng nhà thơ nhân lên đến xót xa. Vì vậy có thể nói đâu đã trở thành tiếng gợi nhớ thương đến côn cào, da diết. Và nỗi thương nhớ hiu quạnh ấy như được trải dài ra bởi:
Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi...
Có thể nói, hai khổ thơ trên đã khái quát một cách sâu sắc nỗi nhớ quê hương đồng ruộng. Nỗi nhớ ấy dâng lên và thốt ra nghẹn ngào thấm thía:
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!
Vẫn là cách nói so sánh diễn tả sự vắng vẻ cô đơn. Ôi và nhớ ơi xuất hiện trong cùng một câu thơ làm cho nỗi nhớ quê càng trở nên da diết hơn bao giờ hết. Nhớ đến ruộng đồng quê hương nhà thơ đồng thời hướng nỗi nhớ của mình đến con người. Đấy là những con người lao động gần gũi đang lưng cong xuống luống cày, vãi giống tung trời. Nhưng tất cả cũng chỉ là trong tiềm thức, chỉ còn là nỗi nhớ. Và giờ này cảnh vật và con người cũng hiện lên đầy buồn nhớ như chính tâm trạng của nhà thơ:
Đâu những chiều sương phủ bãi đồng
Lúa mềm xao xác ở ven sông
Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước
Một giọng hò đưa nhỏ não nùng.
Tất cả hình ảnh con người hiện lên trong tâm trí nhà thơ càng làm cho nỗi nhớ về cuộc sống thêm da diết. Tất cả đã xa rồi, đối diện với nhà thơ lúc này chỉ là kỉ niệm, những kỉ niệm đang cào xé chỉ có thể mở tới, chứ không thể với tới được. Và một lần nữa nhà thơ đã phải thốt lên:
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò?
Câu thơ được điệp lại làm cho nỗi nhớ thương, sự cô đơn trong lòng nhà thơ càng tăng lên. Và tất cả kỉ niệm như vụt biến, nhà thơ trở lại với thực tại phũ phàng và nhận ra:
Đâu dáng hình quen, đầu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc đi!
Có lẽ đây là tiếng gọi của sự nhớ thương, là tiếng nói xót xa cho hoàn cảnh bị giam cầm. Người chiến sĩ cách mạng chợt nhận ra thực tại sao mà cách biệt quá xa xôi. Cũng bởi lẽ thế mà nỗi nhớ lại cồn cào thêm. Chỉ trong một câu thơ thôi mà thương nhớ được điệp tới hai lần. Từ chao càng làm cho nỗi nhớ ấy trở nên da diết, xót xa hơn.
Qua nỗi nhớ quê hương, con người chúng ta không chỉ thấy hiện lên hình ảnh một chiến sĩ cách mạng đang cô đơn trong ngục tù mà còn cho ta thấy tấm lòng yêu quê hương, sự gắn bó của người chiến sĩ với quần chúng nhân dân lao động, luôn luôn hướng tới cuộc sống bên ngoài. Đó cũng là nét rất cơ bản và quen thuộc về hình ảnh người chiến sĩ cộng sản bị tù đày trong thơ Tố Hữu. Sau những khoảnh khắc thương nhớ, nhà thơ chợt nhìn và nhớ về chính bản thân mình. Các khổ cuối của bài thơ sẽ cho thấy rõ sự nhận thức ấy. Trước hết là nhớ về bản thân mình:
Đầu những ngày xưa tôi nhớ tôi.
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ơi, bước chẳng rời.
Vẫn là sự lục tìm trong trí nhớ, song đã có nhận thức rất rõ ràng về những ngày xưa. Nhà thơ nhớ lại những ngày bế tắc, những ngày băn khoăn kiếm tìm lẽ sống. Đấy chính là những ngày nhà thơ chưa bắt gặp lí tưởng cộng sản. Những từ ngữ như: vẩn vơ, băn khoăn, quanh quẩn đã diễn tả một cách chính xác sự bế tắc trong con người nhà thơ lúc này. Ba tiếng tôi nhớ tôi vang lên như một sự nhận thức thấm thía, buồn cho cuộc sống theo mãi vòng quanh quẩn, muốn thoát nhưng chẳng thể bước nổi.
Khổ thơ tiếp chuyển sang một giọng điệu hoàn toàn khác đầy say sưa hưng phấn:
Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời.
Nhà thơ nhớ lại ngày tôi thấy tôi nghĩa là ngày tự soi vào lòng mình, tự thấy mình đã trưởng thành, thấy lẽ yêu đời. Lúc này, lúc nhà thơ cảm thấy hạnh phúc. Niềm hạnh phúc ấy được tác giả ví với hình ảnh của con chim cà lơi nhẹ nhàng tung bay trên bầu trời. Đây là một hình ảnh so sánh hết sức độc đáo. Niềm vui, niềm hạnh phúc ấy được Tổ Hữu diễn tả một cách tinh tế bằng các từ say đồng, vui ca hát, bát ngát trời. Đặc biệt với câu thơ nhẹ nhàng như con chim cà lơi, Tổ Hữu dùng tới sáu thanh bằng, vì vậy đã diễn tả được cái phơi phới trong tâm hồn nhà thơ - một tâm hồn say mê lí tưởng.
Trở về với thực tại, nhà thơ lại đầy ắp tâm trạng:
Cho tới chừ đây, tới chừ đây
Tôi mơ qua cửa khám bao ngày.
Tôi thu tất cả trong thầm lặng
Như cánh chim buồn nhớ gió mây.
Câu thơ mở đầu khổ thơ trên như một lời than. Đấy là sự tiếc nuối quá khứ đã qua, là sự xót xa trong nỗi đau thực tại. Tới chừ đây được lặp lại hai lần làm cho sự xót xa được nhấn mạnh thêm. Và lúc này tất cả tâm hồn người chiến sĩ hướng ra cuộc sống bên ngoài: tôi mơ qua cửa khám bao ngày. Tuy nhiên đọng lại khổ thơ là nỗi buồn bị cùm trói trong tù túng, siết chặt trong thầm lặng. Và nếu trước đây, hình ảnh cánh chim được so sánh để diễn tả sự ngây ngất say mê lí tưởng thì giờ đây cánh chim lại gắn với nỗi buồn. Qua đó, ta thấy khát vọng tự do của người chiến sĩ cách mạng.
Kết thúc bài thơ là điệp khúc được vang lên lần thứ hai trong bài thơ:
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Ôi ruộng đồng quê hương nhớ ơi!
Điệp khúc này tạo cho bài thơ có cấu trúc đặc biệt: mở ra bằng nỗi cô đơn, nỗi nhớ và kết thúc cũng vậy. Vì vậy, có thể nói nhớ là nét chủ đạo bao trùm 44 cầu của bài thơ.
Nhớ đồng - cái tên bài thơ đã mở ra đầy nhớ thương. Những bài thơ không chỉ có tâm trạng nhớ quê, nhớ những con người say mê lí tưởng, khát khao tự do. Đây cũng là nét đẹp trong phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng trong thơ Tố Hữu nói riêng và những người chiến sĩ cách mạng Việt Nam nói chung.