I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

1. Tác giả Phan Bội Châu (1867 - 1940)

- Quê hương của ông ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Mảnh đất từng được ca tụng là “địa linh nhân kiệt” (Đó cũng là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh).

- Là một trong những nhà nho Việt Nam đầu tiên nuôi ý tưởng đi tìm con đường cứu nước mới. Ông cố gắng học hành, thi cử, đỗ đạt không phải để làm quan mà để trang bị vốn hiểu biết, tạo uy tín, chuẩn bị cơ sở cho hoạt động cách mạng.

- Phan Bội Châu là lãnh tụ của các phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ. Mặc dù sự nghiệp cứu nước của ông không thành nhưng đối với dân tộc ta, ông mãi mãi là tấm gương yêu nước thiết tha, một nhiệt huyết cứu nước sôi sục và một lòng tin không đổi dời đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông là “bậc anh hùng, vị thiên sứ được 25 triệu đồng bào tôn kính” (Nguyễn Ái Quốc - Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu).

- Ông từng nói “Lập thân tối hạ thị văn chương” nhưng thực tế con người ông đã sẵn có tài văn nên trên con đường hoạt động cách mạng ông đã dùng văn chương để tuyên truyền cổ động. Chính nhiệt tình cách mạng trong con người ông đã khiến thơ văn ông một thời rung động biết bao con tim yêu nước.

2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ: Các em tìm hiểu ở phần tiểu dẫn

Cần hiểu thêm: Năm 1905 (thời điểm bài thơ ra đời) hoàn cảnh đất nước vẫn tăm tối mịt mù. Nhưng phong trào cách mạng đã bắt đầu hé lên với việc thành lập tổ chức Duy tân hội, chủ trương phong trào Đông du, hướng tới Nhật Bản, lấy những thành tích của đất nước Nhật Bản duy tân để nhen nhóm khát vọng, ước mơ về tương lai đất nước. Đặt bài thơ vào bối cảnh thời đại đó, các em sẽ cảm nhận được khát vọng lớn lao, sôi sục của Phan Bội Châu trong bài thơ và niềm tin của tác giả ở một bài thơ khác. Chẳng hạn:

Đạp toang hai cánh càn khôn

Đêm xuân về lại trong non nước nhà.

(Chơi xuân)

3. Thể thơ: Đường luật thất ngôn bát cú

Từ thể loại đến hình ảnh thơ mang tính ước lệ tượng trưng có thể thấy hình thức bài thơ vẫn là hình thức thơ cũ, những tư tưởng chứa đựng trong bài thơ lại rất mới (Bình cũ rượu mới).

4. Đọc hiểu văn bản ngôn từ

Các em cần đọc phần phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ - Đọc phiên âm cần làm nổi bật âm hưởng trầm hùng. So sánh dịch thơ với nguyên tác để cảm thụ đúng tình ý của tác giả. (Xem chú thích ở sách giáo khoa)

II. GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI

1. Đọc phần Tiểu dẫn để hiểu bối cảnh ra đời của bài thơ là do những ảnh hưởng từ nước ngoài vào để hiểu cái nhiệt tình, hăm hở, “vượt biển Đông” của tác giả và các đồng chí của mình (Những quyển Tân thư - sách bằng chữ Hán do các nhà cách mạng Trung Quốc trước tác hoặc dịch từ tiếng Anh, tiếng Pháp nhằm truyền bá những tư tưởng dân chủ tư sản, những thành tích duy tân của Nhật Bản; đất nước Trung Hoa “duy ngã độc tôn” đang chuyển mình...).

2. Lẽ sống mới và khát vọng hành động của nhà chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi ra đi tìm đường cứu nước (Các em dựa trên cảm xúc của tác giả và những hình tượng nghệ thuật trong bài thơ để giải đáp câu hỏi này).

- Hai câu đề:

Làm trai phải lạ ở trên đời

Há để càn khôn tự chuyển dời

+ Trước hết nó vẫn nói đến chí nam nhi, một quan niệm nhân , sinh phổ biến dưới thời phong kiến. (Trong xã hội trọng nam khinh nữ, được sinh ra là nam nhi làm niềm vinh hạnh, nhưng đồng thời trọng trách cũng rất nặng nề) - Nam nhi phải làm nên chuyện lớn, phải lập nên kì tích lớn lao, dám mưu đồ những việc lớn. Có thể thấy đây là một quan niệm sống tích cực đã khích lệ được biết bao đấng nam nhi lập nên công tích, lưu danh muôn đời. Phạm Ngũ Lão từng bày tỏ khát khao được tài giỏi, mưu lược như Gia Cát Lượng để giúp vua, giúp nước (mặc dù ông đã là tướng giỏi, có công chống giặc Nguyên Mông):

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

Hoặc những câu thơ của Nguyễn Công Trứ:

Chí làm trai nam, bắc, đông, tây

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển.

Tất cả đều xuất phát từ quan niệm như Phan Bội Châu đã nói “Làm trai phải lạ ở trên đời”.

+ Dưới thời phong kiến, người ta quan niệm tạo hóa sinh ra con người, chi phối số phận con người vì vậy thường nảy sinh tư tưởng phó thác số mệnh cho trời định đoạt. Điểm mới mẻ, táo bạo trong quan niệm về chí làm trai của Phan Bội Châu là sự chủ động xoay chuyển thời thế (Câu thơ “Há để càn khôn tự chuyển dời” là một câu hỏi tu từ biểu hiện sự phủ định: Há để ... không thể để...)

Đặt trong bối cảnh hiện tại, câu thơ của Phan Bội Châu ngụ ý nói đến mục tiểu hành động của nam nhi là phải tìm con đường cách mạng mang độc lập về cho đất nước.

- Hai câu thực:

Trong khoảng trăm năm cần có tới

Sau này muôn thuở, há không ai?

+ Trong cuộc đời này cần có ta. Không phải lối nói tự cao tự đại thiếu khiêm tốn mà đó là cách tự thể hiện mình hết sức mới mẻ, đáng kính trọng. Ta đã gặp một cái tội “ngất ngưởng” giữa cuộc đời của Nguyễn Công Trứ nhưng nhà thơ nghiêng về phác thảo một chân dung, một phong cách sống - Còn ở đây, Phan Bội Châu thể hiện rất rõ cái tôi công dân đầy tinh thần trách nhiệm gánh vác giang sơn, không chỉ riêng ông mà còn khích lệ các trang nam nhi cần có ý thức đó (cuộc đời này cần có chúng ta “xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn” - Bài ca chúc Tết thanh niên - Phan Bội Châu).

+ Một đời người sống vì nước, ngàn năm sau tên tuổi sẽ được lưu.

Hai câu thơ cụ thể hóa lẽ sống của nam nhi: phải tự giác, chủ động, trước cuộc đời, phải lưu danh thiên cổ. Tác giả khẳng định mình đồng thời thúc giục mọi người sống có ích cho đời.

- Hai câu luận:

Non sông đã chết, sống thêm nhục

Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.

Tác giả gắn chí nam nhi vào hoàn cảnh thực tế của đất nước.

+ Khi đất nước có ngoại xâm, những người có lòng yêu nước thường hay đặt ra vấn đề “vinh - nhục” (Các em nhớ lại một số câu văn trong bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn; Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu). Câu thơ của Phan Bội Châu, thể hiện sâu sắc nỗi đau mất nước, ý thức về nỗi nhục của thân phận nô lệ, ngầm chứa sự phản kháng, không cam chịu (sống thêm nhục).

+ Sách thánh hiền răn dạy đạo đức lễ nghĩa, nhất là đạo làm tôi phải trung với vua. Phan Bội Châu cũng là trí thức Nho học, cũng từng đọc sách thánh hiền nhưng ông đã có nhận thức khác. Đất nước đã đổi thay, những ông vua tài giỏi, đức độ không còn, chỉ còn những ông vua phản dân hai nước, “Thánh hiền đã vắng” trung quân một cách ngu muội chẳng ích lợi gì. Sách vở thánh hiền chẳng giúp ích gì được trong thời buổi nước mất nhà tan. Câu thơ thức tỉnh ý thức hành động thiết thực, yêu nước là phải cứu nước (ở một bài thơ khác, Phan Bội Châu khuyên thanh niên “Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần”. Bỏ lối học cũ để tu dưỡng tinh thần cứu nước).

Phan Bội Châu đã dám đối mặt với nền học vấn cũ bằng sự quyết liệt, táo bạo của một nhà cách mạng đi tiên phong cho thời đại mới.

- Hai câu kết:

Muốn vượt bể Đông theo cánh gió

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi

+ Những hình ảnh kì vĩ, lớn lao: “Bể Đông”, “cánh gió”, “muôn trùng sóng bạc”, phù hợp với hành động cao cả, tầm vóc phi thường của chủ thể trữ tình.

+ Câu thơ cuối dịch nghĩa là “Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên” là một hình ảnh hào hùng lãng mạn. Sóng của biển cả hay nhiệt huyết cứu nước dâng trào chắp cánh cho ý chí vượt đại dương tìm đường cứu nước thêm phần hăm hở, tự tin. Tư thế và khát vọng lên đường của chủ thể trữ tình ở hai câu kết có một sức truyền cảm mạnh mẽ. Phan Bội Châu đã từ bài thơ này mà khơi gợi được nhiệt huyết của cả một thế hệ.

3. Âm hưởng hào hùng, giọng thơ tâm huyết, sục sôi, là những yếu tố có sức lôi cuốn người nghe, người đọc.

III. BÀI TẬP NGHIÊN CỨU

1. Viết đoạn văn ngắn bình giảng hai câu cuối bài thơ (Các em xem phần gợi ý ở trên).

2. Có thể xem Xuất dương lưu biệt là bài thơ mở đầu xứng đáng cho một thời đại văn học mới

- Bài thơ đã thể hiện những tư tưởng mới mẻ, táo bạo, phù hợp với xu thế của thời đại.

- Bài thơ mở đầu cho thơ văn tuyên truyền, vận động cách mạng.