DÀN Ý

1. Giới thiệu bài thơ và vị trí của đoạn thơ cần bình giảng.

a) Đây thôn Vĩ Dạ rút trong tập Thơ điên của Hàn Mặc Tử

Bài thơ được sáng tác sau khi Hàn Mặc Tử nhận được tấm hình chụp phong cảnh thôn Vĩ Dạ bên bờ sông Hương của Hoàng Cúc. Và đó cũng là lúc nhà thơ biết mình đã làm bệnh hiểm nghèo.

b) Bài thơ là hình ảnh những kỉ niệm đẹp về Thôn Vĩ, về xứ Huế, và mối tình chỉ còn trong nuối tiếc, xót xa, nhưng đầy thơ mộng, vấn vương. Bài thơ có ba khổ thơ. Đoạn bình giảng là hai khổ thơ sau.

2. Bình giảng đoạn thơ

a) Các yếu tố nghệ thuật cân bình giảng:

- Giọng thơ, nhịp thơ, lối đối trong những vần thơ:

+ Giọng thơ buồn, nhịp thơ khoan thai gợi buồn:

Gió theo lối gió, mây đường mây,

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

và:

Ai biết tình gi có đậm đà

+ Lối đối tạo nên câu thơ cân đối, gợi tả nỗi buồn chia li: “Gió theo lối gió/mây đường mây”, “Dòng nước buồn thiu/hoa bắp lay": Hoa bắp lay - nỗi buồn thương nhớ không yên...

- Các hình ảnh gợi cảm, giàu tưởng tượng, liên tưởng:

+ Thuyền chở trăng trên bến sông trăng:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Hình ảnh tuyệt mĩ của trí tưởng tượng - vừa huyền ảo, mông lung việc vận dụng bao kỉ niệm... .

+ “Áo em trắng quá nhìn không ra”: Màu trắng của áo, hay “màu” của sự thánh thiện, cao xa, hay là sự bạc bẽo, mong manh, để anh nhận không ra - hay không với tới...

+ “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”: Ở đây là Quy Nhơn hay Huế? “Sương khói” đất trời? “sương khói” thời gian? Hay “sương khói” của nghĩa tình?...

- Những điệp ngữ và câu hỏi tu từ:

+ “Mơ khách đường xa, khách đường xa”, “Khách đường xa” điệp trong một câu thơ, kết hợp với âm “a” trong “xa” ở cuối câu...

+ Từ “ai” xuất hiện 3 lần trong đoạn thơ, trong cả bài là bốn lần: “Vườn ai”, “Thuyền ai”, “Ai biết”,“Tình ai”. Hai khổ thơ, hai câu hỏi:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

và:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Tất cả đều mơ hồ. Hỏi không để chờ lời đáp - Vô vọng mà vấn vương. Hỏi đế cực tả nỗi buồn, thương, nhớ tiếc sâu thẳm, khôn nguôi.

b) Các ý chính về nội dung bình giảng cần nêu:

(Có thể bình giảng nội dung kết hợp với bình giảng nghệ thuật).

- Gió, mây đôi đường như mối tình chia li mà vương vấn. Một nỗi buồn, thương, nhớ, tiếc vừa như lặng lẽ, trống vắng, vừa như trăn trở, lắt lay, khuấy đảo, không yên:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

- Những kỉ niệm trên dòng sông Hương vào những đêm trăng ngày nào trở về lung linh, bồng bềnh trong mộng tưởng. Hình ảnh cô gái và con đò ngày nào sống dậy. Thuyền em hay “thuyền ai”? Câu hỏi như khắc khoải, vừa thân quen vừa xa lạ. Thuyển đậu giữa bến sông trắng mà không biết có chở trăng về được hay không? Tác giả kí thác vào hình ảnh huyền ảo mông lung ấy bao nhiêu vương vấn, xót xa:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

- Khổ thơ cuối của bài thơ là hình ảnh cô gái, người tình, như gần, như xa, như thực, như mơ, vừa thân thiết, vừa xa vời... hiện ra như một ảo ảnh trong nỗi niềm “chới với”, của thi nhân:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

- Vừa như hi vọng, vừa như trách móc... Một nỗi buồn, cô đơn như thấm lạnh cả linh hồn:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Quy Nhơn và xứ Huế, chiều về và sáng sớm đều nhiều sương khói. Sương khói trong thơ xưa thường gợi nhớ quê hương. Sương khói ở đây là sương khói của đất trời, của thời gian hay của tình người? Câu kết của bài thơ là một câu hỏi không lời đáp. Tình yêu đối với cảnh và người Vĩ Dạ, xứ Huế đã trở thành xa xăm, chỉ còn trong hoài niệm. Nhưng đa tình mà mệnh bạc. Suốt đời thi sĩ sống trong cô đơn, bệnh tật. Câu thơ kết ngưng đọng bao nhiêu buồn thương, nhớ tiếc vấn vương.