DÀN Ý
I. Giới thiệu về Xuân Diệu và thơ Xuân Diệu. Giới thiệu bài thơ Vội vàng và cảm hứng của bài thơ.
II. Bình giảng, làm rõ cảm hứng của bài thơ Vội vàng.
1. Bốn câu ngũ ngôn bày tỏ khát vọng mãnh liệt của nhà thơ.
2 Ca ngợi cuộc sống đầy vẻ đẹp quý giá, đầy niềm vui, đáng cho con người vui sống để hưởng niềm vui mà thiên nhiên đã ban cho.
3. Xuất hiện nỗi lo sợ thời gian sẽ qua, tuổi xuân ngắn ngủi, sự đối lập giữa ý nguyện chủ quan và quy luật của cuộc sống.
4. Nỗi thất vọng lan tỏa vào thiên nhiên.
5. Lời giục giã: Lấy sự sống mãnh liệt vô hạn thay cho cái hữu hạn của tuổi trẻ..
III. Khẳng định giá trị nhân bản vững bền của bài thơ Vội vàng.
BÀI LÀM
Sau gần 50 năm làm thơ, Xuân Diệu đã để lại cho thơ Việt Nam hàng chục tập thơ với trên dưới 1000 bài thơ thấm thía tình yêu cuộc sống nồng nàn. Nhưng, nếu cần dẫn ra một bài thơ tiêu biểu cho thơ Xuân Diệu, thơ tình yêu ấy trong thơ Xuân Diệu, đó sẽ là một bài thơ trong tập thơ Thơ thơ, được sáng tác trong những năm mười tám đôi mươi tươi đẹp của nhà thơ: bài thơ Vội vàng. Đúng như tên gọi, Vội vàng là tình yêu nồng nàn của Xuân Diệu đối với cuộc sống tươi đẹp mà nhà thơ tự thấy mình phải vội vàng, phải gấp gáp nhận lấy.
Xuân Diệu đã mở đầu bài thơ bằng bốn dòng thơ ngũ ngôn ngắn gọn, mạnh mẽ như lời tuyên bố về khát vọng của mình:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Tắt nắng đi ư? Buộc gió lại ư? Đó là những điều không ai có thể làm được, những khao khát thật là phi lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lí đối với trái tim nhà thơ, bởi đó là một trái tim đầy khát khao mãnh liệt, muốn sống đến trọn vẹn chữ sống, muốn giữ mãi cho mình những hương, những sắc của cuộc đời. Mà cuộc đời thì đẹp đẽ biết chừng nào, quý giá biết chừng nào! Trong cuộc sống này, tất cả đều kì diệu, bởi mỗi sự vật dù có nhỏ bé đến đâu cũng hiến cho đời cái tuyệt diệu của mình. Hãy nghe Xuân Diệu kể:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Bướm ong thì có tuần tháng mật, đồng nội thì có muôn hoa, cành tơ thì có muốn lá, mắt người thì có ánh sáng... Những câu thơ của Xuân Diệu nhanh gấp trong một nhịp điệu dạt dào. Không thể nào kể cho hết, đếm cho xuể vẻ đẹp của đời. Ai bảo cuộc đời đáng chán? Cuộc đời đáng sống biết bao! Với Xuân Diệu, cuộc sống lúc nào cũng tràn trề niềm vui, người ta gặp niềm vui hết ngày này qua ngày nọ. Niềm vui như một vị thần độ lượng ngày nào cũng đến gõ cửa từng nhà:
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa.
Đó là cuộc đời trong độ đẹp nhất của cuộc đời, đó là mùa xuân. Phải nói rằng, trong thơ Việt Nam, chưa có ai cảm nhận mùa xuân như cách cảm nhận của Xuân Diệu:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Có một điều đáng lưu ý, bởi đây là một đặc điểm của thơ Xuân Diệu: Xuân Diệu không lấy thiên nhiên làm chuẩn để so sánh với vẻ đẹp con người như ta vẫn gặp trong thơ cổ, mà lại lấy vẻ đẹp con người làm chuẩn để so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nếu ta gặp trong thơ Nguyễn Du, nhan sắc của Thúy Vân:
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Còn Xuân Diệu thì:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Con người bao giờ cũng là điều tuyệt diệu. Có một cuộc sống đẹp đẽ như vậy để sống, có những sắc màu tuyệt diệu như thế để tận hưởng, con người ta sẽ sung sướng biết bao. Tuy vậy, đến đây, như một bản đàn đang vút cao bỗng chùng xuống, những câu thơ của Xuân Diệu cũng chùng xuống. Xuân Diệu nói:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui sướng không được trọn vẹn. Bởi vì sao? Bởi vì Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy sẽ ngắn ngủi biết bao:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Xưa nay, người ta chỉ tiếc thời gian khi nó đã trôi qua, chỉ tiếc những kỉ niệm khi nó đã trở thành quá khứ, chỉ tiếc mùa xuân khi nó đã không còn. Ở đây, với sự nhạy cảm đến lạ lùng của nhà thơ, của người yêu cuộc sống đến độ đắm say, Xuân Diệu đã tiếc mùa xuân cả khi mùa xuân đang còn, ngay khi cả mùa xuân mới đến. Nhà thơ biết rằng thời gian sẽ trôi qua nhanh, mà hình như với những gì quý giá, với những vẻ đẹp, nó còn trôi nhanh gấp bội, nhanh đến khủng khiếp. Cái sắp tới rồi sẽ đi qua, cái đang non trẻ, thắm tươi rồi sẽ già nua, tàn úa. Điều ấy có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với Xuân Diệu:
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Câu thơ của Xuân Diệu thật buồn bã, bởi nhà thơ vừa như phát hiện một điều bi thảm cho mình: mùa xuân sẽ trôi qua, tuổi trẻ sẽ trôi qua, mà khi tuổi trẻ trôi qua thì cuộc đời nào có ý nghĩa gì nữa. Quý giá nhất của cuộc đời, của đất trời, là mùa xuân, quý giá nhất của con người là tuổi trẻ.
Con người khao khát vô tận nhưng cuộc đời lại có quy luật của nó, chặt chẽ vô cùng, nghiệt ngã vô cùng.
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Thời gian thì vô hạn nhưng đời người thì hữu hạn. Trong cái hữu hạn ấy, cái hữu hạn của con người càng nhỏ bé hơn nữa, nhỏ bé đến tội nghiệp. Có lẽ như bao người ở đời, nhà thơ đã từng lí luận với mình rằng mùa xuân của cuộc đời là bất tận, mùa xuân đi, mùa xuân lại đến. Nhưng tự lí luận như thế, không những người ta không tự an ủi được mình, mà chỉ càng xót xa hơn cho cái hữu hạn nhỏ bé của chính mình:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Mùa xuân của đất trời đẹp lắm, quý giá lắm, nhưng mùa xuân chỉ quý, chỉ đẹp khi con người có thể biết được, hưởng được cái mùa xuân ấy. Không có con người, hay con người không được hưởng, thì mùa xuân có đó mà làm gì? Bởi vậy, những câu thơ của Xuân Diệu chuyển sang một giọng buồn bã.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Tất cả đều buồn bã, tất cả đều mất hết ý vị, chỉ còn “rớm bị chia phôi” với “than thầm tiễn biệt” chỉ còn “hờn nỗi phải bay đi”, chỉ “sợ độ phai tàn sắp sửa”. Trong thơ Việt Nam cả phong trào thơ mới, chưa ai có giọng thơ nuối tiếc thời gian, thương tiếc cuộc sống thiết tha đến như Xuân Diệu. Cũng những nét ấy, sắc màu âm thanh ấy, ở đoạn trên náo nức, rạo rực là thế, mà ở đoạn này thì buồn thương ngậm ngùi, xót xa biết bao, tưởng chừng Xuân Diệu hình dung thấy rõ ràng mùa xuân đã mất, tuổi trẻ đã qua, nhà thơ đã kêu lên một cách tuyệt vọng:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa
Nỗi đau đớn phải thật chân thành để Xuân Diệu có tiếng kêu như thế. Còn làm được gì nữa bây giờ? Thời gian cứ mênh mông như mùa xuân và đời người cứ ngắn ngủi. Còn làm được gì nữa để biến cái hữu hạn của đời người ấy ra thành vô hạn để cùng vô hạn với thời gian, với mùa xuân mãi mãi của đất trời? Chỉ còn một cách, ấy là biến cái hữu hạn về lượng thành ra cái vô hạn về chất, nghĩa là phải vội vàng, phải hối hả, phải đắm say, phải mãnh liệt, phải sống để thu vào đến độ cao nhất những gì là đẹp đẽ, quý giá của đời sống, của mùa xuân, của tuổi trẻ. Phải nghĩ ngay đến cái nguy cơ mùa xuân sắp qua, tuổi trẻ sắp hết, Xuân Diệu giục giã:
Mau, đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
Đúng là những câu thơ giục giã, cảm xúc của Xuân Diệu như một dòng suối ào ạt tuôn chảy, tưởng chừng ngôn từ xô đẩy vào nhau, chen lấn nhau để theo kịp nguồn cảm xúc ấy. Những tiếng “ta muốn” lặp đi lặp lại mãi để khẳng định niềm khao khát mãnh liệt và cháy bỏng. Những từ ngữ Xuân Diệu sử dụng ở mức độ mãnh liệt nhất: muốn ôm, muốn riết, muốn say, muốn thâu; lại còn một cái hồn nhiều, chữ nghĩa của Xuân Diệu thật mới lạ và đầy cảm xúc. Trong một dòng thơ, Xuân Diệu bắt đầu bằng từ “và”, lại có ba từ “và”, Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, đến cuống quýt, tưởng chừng có thể một lúc dang tay ra ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế với Xuân Diệu mới thực là sống. Sống như thế mới đi đến chỗ tận cùng của niềm hạnh phúc được sống:
Cho chuếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng.
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, là ánh sáng, là thanh sắc, tận hưởng cuộc đời là có được cảm nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất: Chuếnh choáng, đã đầy, no nê.
Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân, như một cái gì quý nhất, trọn vẹn, như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khát khao cao độ:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào người.
Thật không có thể còn nói được gì hơn về nỗi rạo rực của tình yêu đối với cuộc sống!
Gần 50 năm trước, Xuân Diệu đã linh cảm cái ngắn ngủi của đời, chỉ lo sợ không được cùng với thời gian tồn tại. Lạ thay, chính từ niềm lo sợ ấy, những bài thơ của Xuân Diệu đã sống mãi với thời gian. Bây giờ, sau khi nhà thơ đã nằm xuống hơn 10 năm, đọc lại những bài thơ như bài Vội vàng này, ta bỗng nhận ra rằng: Xuân Diệu mãi mãi trẻ trung, hôm nay và mai sau cũng vậy.