BÀI LÀM

* Cảm hứng chủ đạo nhớ lại phút giây rung động đầu đời của tình yêu thứ nhất.

Lí giải.

* Trong trẻo, tươi sáng nhưng vẫn có vùng u tối của mặc cảm.

* (1): Buổi chiều thu ở không gian hẹp (vòm me xanh) nhưng nó được đội mắt say đắm men tình nhìn như một buổi sáng mùa xuân.

(2) Không gian rộng bị nhiễm từ trường tình ái của khổ 1→ con người cũng sống trong không khí tình yêu đó.

(3) Hồi ức: buổi ấy, bề ngoài, hình thức bên trong vướng mắc tơ duyên.

(4) Chiều muộn: Mặc cảm về chia li, đổ vỡ → trống trải, cô đơn.

(5) Mơ ước được kết đôi. Quan niệm nhân sinh về tình yêu.

I- MỞ BÀI

Người ta biết đến Thơ duyên có lẽ bởi sự phê bình rất sắc sảo và rất có duyên của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam. Nhà phê bình đã thấy cái tôi rất cá nhân trong hình tượng “Con cò trên ruộng cánh phân vân” và với 2 câu thơ “Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu - Lả lả cành hoang nắng trở chiều” được Hoài Thanh khám phá nó bớt đi sự cụ thể để cho ta rất nhiều mộng mơ. Quả thật Thơ duyên là một trong những sáng tác độc đáo của ông Hoàng Thơ mới Xuân Diệu.

II - PHÂN TÍCH

Xưa nay phân tích, lí giải và cảm nhận bài Thơ duyên ai cũng nhất trí với cảm hứng chủ đạo của nó: Đó là một bài thơ tình, là lời của nhân vật chàng trai nhớ lại phút giây rung động đầu đời của tình yêu đầu đời. Điều này rất đúng bởi người ta thường nói Xuân Diệu là nhà thơ duy cảm. Mọi sự vật đều có thể đánh thức mọi giác quan rất nhạy cảm của nhà thơ. Tuy nhiên nếu đọc kĩ ta sẽ thấy một cảm hứng ngầm vận động phía bên trong. Đó là cảm hứng lí giải, cắt nghĩa rất Xuân Diệu. “Tình yêu muôn thuở có bao giờ đứng yên” (Xuân Quỳnh) nhưng ai cũng thừa nhận người ta thành đổi thành lứa là nhờ có duyên với nhau. Vậy duyên là gì? Nguyên nhân nào để người ta cảm thấy muốn có nhau và khao khát muốn sống bên nhau mãi mãi? Xuân Diệu muốn cắt nghĩa cái điều muốn thuở ấy bằng chính sự thể hiện của tâm hồn mình.

Thơ Xuân Diệu luôn có những cung bậc ngược chiều. Nó náo nức, sôi nổi, ham sống mãnh liệt bao nhiêu thì nó cũng buồn bã, bị quan tuyệt vọng bấy nhiêu. Bởi Xuân Diệu luôn mơ về cái tuyệt đích, cái hạnh phúc đã trọn vẹn thì không có quyền phôi phai.

“Trăng đã rằm thì không được khuyết”. Mặc dù, Thơ duyên là bài thơ trong sáng bậc nhất trong thơ Xuân Diệu nhưng nó vẫn có cái vòng u tối của sự mặc cảm, của sự lo âu.

Khổ thơ mở đầu: Là một thế giới thiên nhiên có hình khối, có sắc màu, có cả âm, hữu thanh và vô thanh. Tất cả quy tụ ở vòm me xanh trong một buổi chiều thu. Tuy nhiên trong con mắt của người say đắm men tình thì cả thế giới thiên nhiên náo nức như buổi sáng mùa xuân. Tất cả đều là quan hệ cặp đôi “chiều mộng” thì “hòa thơ" để cặp đôi với “nhánh duyên”; trong “vòm me” thoáng đãng, đôi chim đuổi nhau ríu rít, chuyền cành và bầu trời như muốn dồn tất cả màu xanh lại để đổ xuống vòm me sự phóng khoáng, cái màu xanh ngọc diệu kì của mình.

Câu thơ thứ ba rất mạnh: màu xanh không phải là rót, rải mà là để xuống ào ạt. Vòm me không chỉ là vòm màu xanh ở một tầng mà tất cả chiếc lá me đều đẫm màu xanh ngọc non tơ.

Dòng thơ thứ tự là một tiếng huyền rất bí mật. Dường như đây có một sức mạnh là lời rủ rê, ngọt ngào nhất của một thế lực vô hình nào đó đang điều khiển thế giới thiên nhiên giao cảm mãnh liệt với nhau.

Nàng thu vô hình đã đến để đem lại phép màu cho buổi chiều lạ lùng này:

Thu đến, nơi nơi động tiếng huyền

Đúng là một buổi chiều êm ả như ru, nó sáng bừng lên bởi màu xanh ngọc của lá bởi bầu trời cũng mở ra nhuộm màu xanh ngọc, mở rộng tầm mắt bao la cộng với tiếng chim ríu rít khiến cho ta cứ ngỡ là buổi sáng xuân. Nếu khổ thơ thứ nhất là thiên nhiên thì khổ 2 một nửa dành cho con người. Sự giao cảm của thiên nhiên dường như bị lan rộng bởi cái từ trường Tình Ái được phát ra từ vòm me xanh lạ lùng. Những sự vật hết sức thân quen hàng ngày thực sự đã “lạ hóa” bởi quan hệ cặp đôi. Con đường gió, cành cây, nắng đều là những sự vật thân quen đến mức ta không còn chú ý đến nữa. Thế nhưng, các định ngữ “nhỏ nhỏ", “xiêu xiêu”, “lả lả” và dáng điệu của nắng “trở chiều” một cách duyên dáng, kiểu cách đã khiến cho mọi sinh thể trở nên có hồn người. Yếu tố tạo nên cái lạ, cái kì diệu ấy chính là giữa chúng có mối quan hệ yêu thương đằm thắm, là cái nồng nàn mê đắm. Thiên nhiên đang đi vào cuộc tình của mình, mỗi lúc một sâu sắc gắn bó. Một thiên nhiên đắm sắc ái tình và hạnh phúc như vậy, nó đã dẫn dụ, rủ rể con người. Nhân vật trữ tình nhớ lại:

Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn.

“Lòng” là trái tim, là tâm hồn nghe ý thực ra cũng chính là nghe lòng. Ta và bạn quan hệ có vẻ xa cách nhưng khi đã nghe được cái tiếng nói vô thanh, tiếng huyền của trái tim thì sự cảm nhận về tình yêu là có thật.

Lần đầu rung động nỗi thương yêu

(nỗi: nỗi lòng, nỗi lo toan...)

Thế giới vô hình kết duyên với thế giới hữu hình, cái tiếng lòng vô hình đã nhận được cái sống tình của nhau và đã được định hình thành cái “nỗi thương yêu”.

Thiên nhiên đắm say hơn, có xu hướng mở đường để cho tình yêu lứa đôi cũng dao động theo. Nghĩa là cái buổi đầu ấy tất yếu sẽ tiếp tục một tình yêu thật sự. Có điều, thiên nhiên cặp đôi một cách hồn nhiên, thì con người cặp đôi tế nhị hơn nhiều: vì hình thức ngỡ như nó cô lập, tách rời:

Em bước điềm nhiên không vướng chân

Anh đi lững thững chẳng theo gần.

Cái “điềm nhiên” và cái “lững thững” chỉ tạo một khoảng cách giả tạo. Khi biết rằng mình “lững thững" và bạn mình điềm nhiên thì tâm trạng đã không còn như vậy nữa. Thực ra, sự cặp đôi đã chuyển biến ở đại từ nhân xưng. Ta và bạn đã trở thành anh với em. Nhân vật trữ tình thú nhận đó là một sự vô tâm nhưng vô tâm như một “cặp vần” trong bài thơ “dịu”. Cái cấu trúc nên bài thơ “dịu” ấy là những cặp đôi của thiên nhiên. “Anh” và “em” quyết định cái sinh mệnh của bài thơ ấy. “Cặp vần” nó ngỡ như rất vô tâm với nhau bởi nó thường đứng rất cách nhau trong bài thơ nhưng không có nó thì không thể nói là thơ. Từ “cặp vần” rất hay bởi vì không có cặp thì không ai gọi là vần ở trong thơ. Nghĩa là không có em là anh thành và ý nghĩa. Mượn lối so sánh độc đáo, giàu gợi cảm nhà thơ đã phủ nhận sự vô tâm của anh với em. Bên trong họ đã vướng mắc tơ duyên.

Đến khổ thơ thứ tư ta thấy cảm xúc đột ngột biến điệu. Tất cả quan hệ cặp đôi đã trở nên lẻ loi, buồn bã, hình ảnh mây biếc và hình ảnh con cò trên ruộng là hai cá thể cô đơn không quan hệ với nhau. Một bên thì bay gấp gấp, một bên thì phân vân muốn ở và cũng muốn đi. Trạng thái nước đôi này đủ biểu hiện một sự mặc cảm tất yếu về sự chia li, đổ vỡ trong tình ái. Khi chưa nắm bắt được đối tượng mà mình để hết tấm lòng, để hết cái giấc mơ vào đó thì sự run rẩy tội nghiệp của Xuân Diệu, của đôi cánh cò trên ruộng là tất yếu. Càng dang thêm cánh nghĩa là cũng ước vọng nhiều hơn thì sẽ thấy nỗi cô đơn rộng lớn hơn. Bức tranh đối lập hoàn toàn với khổ thứ nhất.

Từ “phân vân” biểu hiện điều có nên đi hay là dừng lại, có nên tiến sâu vào con đường tình ái hay là rút lui? Đây là mặc cảm của con người không những tình yêu mang đến phép màu cho con người mà khi mất tình yêu thì như mất tất cả.

Đến khổ thứ 5: Đã phát biểu một quan điểm nhân sinh, một sự giải thích rằng tình yêu không cần một sự mai mối nghi thức nào cả mà tình yêu bởi xuất phát từ một nguyên nhân đặc biệt: Do họ “ngơ ngẩn” với nhau nên ngay giờ phút này đây nhân vật “anh” đã thấy đám cưới lòng viên mãn một tình yêu.

Con người là kết tinh cuối cùng mà tạo hóa ban phát. Chữ duyên của thiên nhiên không cần lí giải. Cái duyên của con người do thiên nhiên xui khiến. Thiên nhiên, quan hệ cặp đôi với nhau, những vật vô tri, vô hình với những vật hữu hình cũng quan hệ cặp đôi với nhau. Chính vì thế lòng anh và lòng em quan hệ cặp đôi với nhau là một quy luật rất tự nhiên,

Chính cái chiều hôm ngơ ngẩn với những vần thơ trong sáng đã nói về quan hệ cặp đôi ở trên đã làm nhà thơ ngơ ngẩn. Ngơ ngẩn là một thèm muốn, một khát vọng muốn được hạnh phúc, muốn được như thiên nhiên. Nhà thơ cho rằng “lòng cưới lòng” là cái tình yêu đích thực nhất. Và chữ duyên đã được chứng minh theo lối quy nạp: “chiều” cặp đôi với “nhánh duyên”, đôi chim hót hạnh phúc trong vòm lá, Trời đổ màu xanh cho vòm me, ngay cả thế giới vô hình của gió, của những cũng cặp đôi với thế giới hữu hình. Đó là con đường, là cành hoang...

Anh với em có lứa có đôi với nhau cũng là một tất nhiên, là một lẽ rất tự nhiên.

III. KẾT LUẬN

Xuyên suốt cả bài Thơ duyên dường như có một số câu chữ rất đăng đối. Có bao nhiêu câu thơ nói về thiên nhiên thì dường như ứng với nó là bấy nhiêu câu nói về con người. Như vậy con người nó luôn luôn hòa quyện vào trong thiên nhiên. Tình yêu của con người luôn hòa hợp với tình yêu của đất trời, vũ trụ. Con người và thiên nhiên đã sống trong không khí của chữ duyên, có vẻ mơ hồ nhưng rõ ràng là định hướng để có một tình yêu.

Xuân Diệu đã ghi thêm vào cuốn từ điển tình yêu bằng thơ mà ông hằng mơ ước một định nghĩa về chữ duyên rất quyến rũ, mới lạ, bất ngờ và ngẫm nghĩ nó rất đúng, rất đáng để chúng ta suy ngẫm.