Trong những loại dụng cụ, đồ nghề để kiếm cá của vùng sông nước, vó bè là một “loại hình”, hay nói cho đúng hơn: một phương tiện cồng kềnh, đơn giản, thầm lặng, biệt lập một cách độc đáo. Với tính chất nặng nề của bè tre, của bộ khung cần vỏ, gọng vó kềnh càng như một nhịp cầu “bọ ngựa” bắc chênh vênh trong không khí để cho người kéo vó bè chơi bệp bềnh một mình. Đó là chưa kể đến lều vó, chiếu giường, nồi niêu, bát đĩa, ấm chén, điếu cày trang bị cho chủ nhân kéo vó như là một hộ cá nhân. Ngoài ra còn phải có một chiếc thuyền con để mắc vó, đổ cá ở cái giỏ buộc dưới rốn vó. Một cái bè cũng không thể thiếu chiếc mỏ neo, xích sắt, cầy, cọc và mấy con sào để chống, đẩy khi cần thiết. Và để tạo lực bẩy dễ dàng người kéo đuôi cần vó, người ta còn phải đeo dăm hòn đá ở đuôi cần vó, mỗi hòn nặng khoảng trên dưới chục cân. Đó là những vật đối trọng giữ cho bộ khung cần vó được định vị, đồng thời giúp sức cho người kéo vó nâng lên, đặt xuống nhẹ nhàng.
Chủ nhân của những bè vó rất nhiều dạng người khác nhau. Thông thường họ đều không phải là người làm nghề chài lưới chuyên nghiệp. Phần lớn là những người ở làng ven sông. Những người nông dân vùng bãi quen với sông nước, muốn kiếm thêm con cá, tăng thêm chút thu nhập cho đời sống gia đình. Có thể đó là một ông già không còn đủ sức vật lộn với cái cầy đi theo đuổi con trâu, con bò, khuya sớm trên đồng ruộng. Cụ ra đó nằm giữa một vùng nước yên tĩnh. Mọi việc từ trang bị, lắp ghép, chèo chống với giông bão, di chuyển khi con nước lên, khi dòng nước rút của bè vó đã có con cháu neo nọc, chống đỡ. Cụ nằm đây, trong túp lều có đủ mọi tiện nghi đơn giản nhưng cần thiết như liễn cơm, ấm nước vối hoặc ấm giỏ pha chè mạn đến nhu cầu về sinh hoạt, đời sống cụ không phải bận tâm, đều có đủ. Cụ già nằm trong lều, thỉnh thoảng cụ ngồi dậy, nắm sợi dây chão có đeo những hòn đá như một chuỗi tràng hạt khổng lồ treo lơ lửng chừng trời ở đuôi khung cần vó. Những hòn đá giúp sức cụ nhấc chiếc vó đầu bè đằng kia bắt con cá chui vào giỏ buộc dưới rốn vó. Và cụ lại vào trong lều lấy chiếc điếu cày, khoan thai ve điếu thuốc lào tra vào nõ điếu, châm lửa, ghé miệng bắt cái điếu phải sôi lên chút nước trong ống điếu cùng với chiếc nõ điếu. Lập lòe ngọn lửa trên đầu nõ điếu. Tiếng điếu cày vang trên sông như gọi đàn cá từ cuối sông đến. Cụ già ngửa mặt lên trời thả làn khói thuốc bay vào không gian. Trong làn khói thuốc loãng dần ra theo cơn gió sông ấy có con chim bói cá hình như vô tình hít phải, chao cánh đậu xuống đầu gọng vó. Con chim nhấp nhổm, gật gù như cùng say khói thuốc với người.
Chủ nhân của một bè vó có thể đó là một cặp vợ chồng còn son trẻ. Họ mới được cha mẹ cho ra ở riêng, chưa có tài sản, vốn liếng gì đáng kể, cũng như công việc làm ăn chưa ổn định ở trên bờ. Cái túp lều ở đuôi bè vó có thể đủ sức chứa cho hai người. Sáng sáng người chồng đổ cá ở trong chiếc giỏ ra cho vợ đi chợ. Anh chồng ở dưới bè, thỉnh thoảng lại kéo một mẻ vó. Xong anh nhảy lên bờ sông đi loanh quanh trên bờ hái nắm rau rộn, rau muối hoặc rau sam, rau má gì đó. Rồi lại xuống bè kéo tiếp mẻ vó, rít điếu thuốc lào đợi vợ về chợ. Người vợ đi bán cá về. Họ trò chuyện với nhau về buổi chợ bán nhanh, bán chậm, gặp ngày cá đắt, cá rẻ gì đó. Chị vợ đổ những đồng tiền giấy lẻ bị vo viên, bóp méo ở trong bị ra còn tanh tanh mùi cá. Anh chồng cười lên với cút rượu của người vợ dúi vào tay cùng với gói thuốc lào. Họ muốn có niêu canh ngọt thì đã có những con tôm nằm trong giỏ ở rốn vó kia. Cái bếp khoét trên bờ sông với ba viên đá làm đầu ran đang chờ tay người vợ cho vào nắm củi rều, nhen lửa cho làn khói tỏa men bờ sông... cho mâm cơm của đôi vợ chồng nghèo son trẻ còn thiếu thốn nhiều mặt kia thơm mùi cá nướng, khiến Hà Bá cũng vui lây thèm cảnh cõi người...