Hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu. Bài về thơ Sóng Hồng viết: “Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là tình cảm và lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có thể thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường”.

Thiên về biểu hiện cảm xúc, hàm súc cô đọng, ngôn ngữ có nhịp điệu là những đặc trưng cơ bản của thơ. Cũng trên cơ sở này mà xuất hiện khái niệm chất thơ để chỉ những sáng tác văn học (bằng văn vần hoặc văn xuôi) giàu xúc cảm, nội dung cô đọng, ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhịp điệu.

Lí tưởng và khát vọng của đông đảo nhân dân, chủ nghĩa nhân đạo với những biểu hiện lịch sử của nó là tiêu chuẩn khách quan cho chất thơ chân chính ở mỗi thời đại. Chất thơ là điều kiện cơ bản của bài thơ, không có chất thơ thì nhất quyết không thể có thơ hay.

Thơ là hình thái văn học đầu tiên của loài người. Ở nhiều dân tộc, trong một thời gian tương đối dài, các tác phẩm văn học đều được viết bằng thơ. Vì thế, trong lịch sử văn học của nhiều dân tộc từ thế kỉ XVII trở về trước, nói đến thơ ca tức là nói đến văn học.

Tùy theo yêu cầu nghiên cứu, có thể phải chia thơ theo những tiêu chí khác nhau. Dựa vào phương thức phản ánh, có thể chia ra thơ tự sự và thơ trữ tình. Dựa vào thể luật, có thể chia ra thơ cách luật và thơ tự do. Xét về mặt gieo vần, có thể chia ra thì có vần và thể không vần. Cũng có khi người ta phân loại theo thời đại như thơ Đường thơ Tống, thơ Lý - Trần. Ngoài ra, người ta còn phân loại thơ theo nội dung như thơ tình yêu, thơ triết lí, thơ chính trị, thơ đời thường v.v...

Thơ bài luật.

Một dạng kéo dài của thơ Đường luật, trong đó sự đối ngẫu có trong sáu câu trở lên, cả bài gồm mười câu trở lên, theo tập quán, thường lấy số vần chẵn chục (cả bài hai mươi câu), chẵn hai chục (cả bài bốn mươi câu)... và do đó trên bài thơ thường được chia rõ bằng các chữ “thập vận”, “nhị vận”...

Đây là một loại thơ mang nặng màu sắc phô trương, quan dạng, ít ảnh hưởng đến Việt Nam.