NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ

A. YÊU CẦU

- Hiểu vai trò và ý nghĩa chủ yếu của yếu tố nghị luận trong văn tự sự: Trong văn tự sự, người viết thường dùng yếu tố nghị luận xen vào để miêu tả nhân vật khi cần thuyết phục người khác hay thuyết phục người đọc. Yếu tố nghị luận thường được diễn đạt bằng hình thức lập luận, làm cho câu chuyện thêm phần triết lí.

- Luyện tập nhận diện các yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự và viết đoạn văn có sử dụng yếu tố nghị luận.

B. GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI, BÀI TẬP

I- Phần bài học

TÌM HIỂU YẾU TỐ NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ

Bài tập 1. Đọc các đoạn trích sau:

a) Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương. Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận.

(Nam Cao, Lão Hạc)

b) Thoắt trông nàng đã chào thưa:

“ Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!

Tha ra thì cũng may đời,

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”.

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Bài tập 2. Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:

a) Nghị luận là nêu lí lẽ, dẫn chứng để bảo vệ một quan điểm, tư tưởng (luận điểm) nào đó.

Căn cứ vào định nghĩa này, hãy tìm và chỉ ra những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích trên.

b) Từ việc tìm hiểu hai đoạn trích, hãy trao đổi trong nhóm để hiểu nội dung và vai trò của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự nói chung. Yếu tố nghị luận có thể làm cho văn bản tự sự thêm sâu sắc như thế nào?

(Gợi ý: Để thực hiện các yêu cầu trên, cần chú ý mấy điểm sau:

- Trong mỗi đoạn trích, nhân vật nêu ra những luận điểm gì?

- Để làm rõ luận điểm đó, người nói đã đưa ra luận cứ gì và lập luận như thế nào?

- Các câu văn trong văn bản tự sự thường là loại câu gì? (miêu tả, trần thuật, khẳng định, phủ định, câu ghép có cặp từ hô ứng: nếu ... thì; không những... mà còn; càng... càng; vì thế... cho nên...)

- Các từ ngữ thường được dùng để lập luận trong văn bản tự sự là những từ ngữ nào? (tại sao, thật vậy, trước hết, sau cùng, nói chung, tóm lại, tuy nhiên, ...)

Gợi ý

a) Những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích:

- Trong đoạn trích Lão Hạc của Nam Cao:

+ Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương...

+ Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa.

- Trong đoạn trích Thuý Kiều báo ân báo oán:

+ Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.

+ Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

+ Lòng riêng riêng những kính yêu,

Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai.

+ Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.

b) Thảo luận nhóm: (theo gợi ý ở mục 2, bài tập).

II - Phần luyện tập

Bài tập 1. Lời văn trong đoạn trích (a) (bài tập 1, phần Bài học) là lời của ai? Người ấy đang thuyết phục ai? Thuyết phục điều gì?

Gợi ý

Lời văn trong đoạn trích Lão Hạc là lời của nhân vật ông giáo. Ông giáo thuyết phục chính mình (và cũng là tác giả thuyết phục người đọc) về điều: Cố mà tìm hiểu những người xung quanh để cảm thông và thương yêu họ.

Bài tập 2. Ở đoạn trích (b) (bài tập 1, phần Bài học), Hoạn Thư đã lập luận như thế nào mà nàng Kiều phải khen rằng: Khôn ngoan đến mức nói năng phải lời? Hãy tóm tắt các nội dung lí lẽ trong lời lập luận của Hoạn Thư để làm sáng tỏ lời khen của nàng Kiều.

Gợi ý

Nàng Kiều đã khen Hoạn Thư là khôn ngoan đến mực nói năng phải lời sau khi đã nghe Hoạn Thư kêu ca chạy tội. Hoạn Thư đã lập luận như sau:

- Đưa ra lí lẽ: Phận đàn bà, ghen tuông là chuyện thường tình, chồng chung không ai chiều ai được.

- Kể công: Không đuổi theo Kiều, trong thâm tâm vẫn kính yêu và khâm phục Kiều.

- Biết tội, nhưng vẫn trông chờ vào sự rộng lượng, tha thứ của Kiều.