ÔN TẬP PHẦN TIẾNG VIỆT

A. YÊU CẦU

- Ôn lại các nội dung kiến thức về: các phương châm hội thoại, xưng hô trong hội thoại, cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp.

- Thực hiện các bài tập trong sách giáo khoa.

B. GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI, BÀI TẬP

I. Các phương châm hội thoại

Bài tập 1. Ôn lại nội dung của các phương châm hội thoại.

Gợi ý

Các nội dung kiến thức này đã được trình bày trong SGK. Lưu ý:

- Phương châm về lượng: nói phải có nội dung, nội dung nói đáp ứng nhu cầu cuộc giao tiếp, không thiếu không thừa.

- Phương châm về chất: chỉ nói những điều mình tin là đúng hoặc có bằng chứng xác thực.

- Phương châm quan hệ: nói đúng đề tài, tránh lạc đề.

- Phương châm cách thức: nói ngắn gọn, rành mạch, tránh mơ hồ.

- Phương châm lịch sự: cần tế nhị và tôn trọng người khác.

Bài tập 2. Hãy kể một tình huống giao tiếp trong đó có một hoặc một số phương châm hội thoại nào đó không được tuân thủ.

Gợi ý

Có thể tìm trong truyện vui, truyện cười hoặc một tình huống giao tiếp nào đó mà mình đã gặp để minh hoạ cho một số phương châm hội thoại không được tuân thủ. Ví dụ trong truyện cười sau, người nói (quan huyện) đã không tuân thủ phương châm quan hệ:

NẤU CHÁO GÀ MÀ ĂN

Năm ấy trời làm lụt lội, dân tình đói kém. Một viên quan được lệnh đi hành hạt xem xét. Đến một làng nọ nghe lí trưởng tâu:

- Bẩm quan, trong làng hiện nay đang đói lắm, nhiều nhà không còn gạo để nấu cơm.

Quan huyện nghe xong, liền phán:

- Các ông ngu quá vậy. Sao không bảo họ nấu cháo gà mà ăn!

(Viện Văn học - Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam)

II. Xưng hô trong hội thoại

Bài tập 1.Ôn lại các từ ngữ xưng hô thông dụng trong tiếng Việt và cách dùng chúng.

Gợi ý

Tiếng Việt có một hệ thống từ ngữ xưng hô rất phong phú, tinh tế và giàu sắc thái biểu cảm. Đó là các đại từ nhân xưng, các danh từ dùng để xưng hô. Tùy vào đối tượng và tình huống giao tiếp mà người nói xưng hô thích hợp.

Bài tập 2. Trong tiếng Việt, xưng hô thường tuân theo phương châm “xưng khiêm, hô tôn”. Em hiểu phương châm đó như thế nào? Cho ví dụ minh hoạ.

Gợi ý

Người Việt xưng hô theo phương châm “xưng khiêm, hô tôn”, nghĩa là khi xưng thì khiêm nhường (thường dùng từ thể hiện mình ở tuổi ít hơn hoặc vị trí xã hội thấp hơn người đối thoại), khi hô (gọi) thì tôn kính (thường dùng từ gọi đặt người đối thoại ở vị trí cao hơn mình, lớn tuổi hơn mình). Ví dụ:

- Thời xưa, xưng: hàn sĩ, học trò, bần tăng, thảo dân..; gọi: đại nhân, đại huynh, tiên sinh, bệ hạ,...

- Thời nay, cũng còn khá phổ biến cách xưng theo vai dưới (thường hạ một bậc) và gọi người đối thoại bằng vai trên (thường cao hơn một bậc).

Hai người đối thoại bằng vai nhưng khi xưng thì xưng là em, khi gọi thì gọi là bác. Những người phụ nữ thường xưng cháu, nhà cháu với người ngang hàng hoặc dưới hàng (đây là cách xưng gọi thay vai).

Trong tình huống xã giao lịch sự, trang trọng, người nói thường gọi người đối thoại là quý ông, quý bà, quý cô,...

Bài tập 3. Thảo luận vấn đề: Vì sao trong tiếng Việt, khi giao tiếp, người nói phải hết sức chú ý đến sự lựa chọn từ ngữ xưng hô?

Gợi ý

Đối với người Việt Nam, xưng hô thể hiện mối quan hệ, thái độ, tính cách. Hệ thống xưng hô trong tiếng Việt lại hết sức phong phú và linh hoạt. Vì thế, khi giao tiếp, người Việt rất chú ý khi lựa chọn từ ngữ để xưng hô. Nếu xưng hô không phù hợp với tình huống và quan hệ sẽ bị người nghe coi là khiếm nhã, thậm chí hỗn xược, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giao tiếp.

III. Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp

Bài tập 1. Ôn lại sự phân biệt giữa cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp.

Gợi ý

- Cách dẫn trực tiếp là nhắc lại nguyên văn lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật. Lời dẫn trực tiếp phải đặt trong dấu ngoặc kép.

- Cách dẫn gián tiếp là thuật lại lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật, có điều chỉnh cho thích hợp. Lời dẫn gián tiếp không đặt trong dấu ngoặc kép.

Bài tập 2. Đọc đoạn trích và thực hiện yêu cầu nêu ở dưới (SGK, tr. 190, 191):

Gợi ý

- Có thể chuyển như sau: Vua Quang Trung hỏi Nguyễn Thiếp về việc quân Thanh sang đánh, nếu nhà vua đem binh ra chống cự thì việc thắng thua sẽ thế nào, Nguyễn Thiếp nói rằng giữa lúc trong nước trống không, lòng người tan rã, quân Thanh ở nơi xa tới, không biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, không hiểu rõ thế nên đánh giữ ra sao, vậy nếu nhà vua cất quân đánh thì không quá mười ngày quân Thanh sẽ bị tiêu diệt.

- Khi chuyển những lời trong đoạn trích thành lời dẫn gián tiếp thì một số từ ngữ có thể thay đổi:

+ Chuyển những từ ngữ xưng hô: tôi (vua Quang Trung xưng với Nguyễn Thiếp - ngôi thứ nhất) sẽ được chuyển sang nhà vua (lời tác giả - ngôi thứ ba); chúa công (Nguyễn Thiếp gọi vua Quang Trung - ngôi thứ hai) chuyển sang nhà vua hay vua Quang Trung (lời tác giả - ngôi thứ ba); tiên sinh (vua Quang Trung gọi Nguyễn Thiếp - ngôi thứ hai) được lược bỏ.

+ Câu của Nguyễn Thiếp: từ bây giờ và từ đây sẽ được lược bỏ.